Dự thảo Luật gồm 08 chương, 84 điều, cụ thể như sau:
Chương I. Những quy định chung
Gồm 6 điều, từ Điều 1 đến Điều 6 gồm các nội dung: Giải thích từ ngữ; nguyên tắc bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ; tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ; các hành vi bị nghiêm cấm.
Điểm mới: Bổ sung một số khái niệm, định nghĩa mới như ùn tắc giao thông, tai nạn giao thông đường bộ…; sửa đổi một số khái niệm, định nghĩa trong Luật Giao thông đường bộ 2008 cho chính xác và phù hợp với thực tiễn hơn. Quy định cụ thể về nội dung, hình thức tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ, phân công trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong công tác tuyên truyên. Bổ sung nhiều hành vi bị nghiêm cấm là những hành vi nguy hiểm, có nguy cơ cao gây ra tai nạn giao thông, ùn tắc giao thông hoặc gây mất an ninh, trật tự, như: điều khiển phương tiện giao thông mà trong cơ thể có chất ma túy hoặc các chất kích thích khác mà pháp luật cấm sử dụng; trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn…
Chương II. Hệ thống báo hiệu và quy tắc giao thông đường bộ
1. Hệ thống báo hiệu đường bộ
Gồm 6 điều, từ Điều 7 đến Điều 12 quy định về hiệu lệnh của người điều khiển giao thông, tín hiệu đèn giao thông, biển báo hiệu đường bộ, vạch kể đường, cọc tiêu, rào chắn, tường bảo vệ và các thiết bị phục vụ an toàn giao thông khác.
Hệ thống này là thông tin tín hiệu an toàn giao thông để thông báo, hướng dẫn hoặc bắt buộc người tham gia giao thông chấp hành để bảo đảm an toàn cho mình và người tham gia giao thông khác (không quy định về việc sản xuất, tổ chức lắp đặt, cắm các biển báo hiệu đường bộ), phù hợp với Công ước Viên 1968 về Biển báo – Tín báo.
2. Quy tắc giao thông đường bộ
Gồm 32 điều, từ Điều 13 đến Điều 44 với các nội dung cơ bản như: quy tắc về phía đi, phần đường, nhường đường, tránh, vượt, chuyển hướng, lùi xe, vượt xe, dừng xe, đỗ xe, tốc độ, khoảng cách…. để bảo đảm an toàn cho mình và cho người tham gia giao thông khác. Đây là những quy tắc an toàn bắt buộc mọi người phải chấp hành, trên cơ sở nội luật hóa quy định trong Công ước Viên năm 1968 về Giao thông đường bộ phù hợp với điều kiện Việt Nam, kế thừa những quy định ở các văn bản dưới luật, bổ sung một số quy định mới phù hợp với tình hình thực tiễn và phù hợp với nhiều quốc gia trên thế giới.
Điểm mới: sửa đổi, bổ sung đầy đủ và rõ ràng hơn một số quy tắc giao thông, như: nhường đường cho người đi bộ, người khuyết tật, người già, trẻ em; quy tắc sử dụng làn đường, chuyển hướng, tránh, vượt, dừng, đỗ xe…; sửa đổi quy định tốc độ tối đa trong khu vực đông dân cư (trừ đường cao tốc) để bảo đảm an toàn giao thông, phù hợp với điều kiện hạ tầng Việt Nam, không chia quá nhiều mức tốc độ tối đa theo loại phương tiện để người tham gia giao thông dễ nhớ hơn. Bổ sung quy định tốc độ tối đa của một số loại phương tiện có trọng tải lớn trên đường cao tốc để bảo đảm an toàn…
Chương III. Phương tiện và người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ
1. Phương tiện tham gia giao thông
Gồm 05 điều, từ Điều 45 đến Điều 49 với các nội dung cơ bản như: Điều kiện tham gia giao thông đường bộ; cấp đăng ký và biển số xe cơ giới; thu hồi đăng ký và biển số xe cơ giới; trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền về cấp, thu hồi giấy chứng nhận đăng ký, biển số xe, trách nhiệm của chủ xe cơ giới, phù hợp với Công ước Viên năm 1968 về Giao thông đường bộ và phù hợp với thực tiễn Việt Nam (không quy định về nội dung đảm bảo chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường của xe cơ giới tham gia giao thông, điều kiện tham gia giao thông của xe thô sơ, xe máy và các phương tiện xe máy, ô tô chạy bằng năng lượng điện, ô tô tự lái).
Điểm mới: so với Luật Giao thông đường bộ năm 2008, đã bổ sung quy định chi tiết nhiều nội dung về công tác đăng ký, cấp biển số xe theo hướng chặt chẽ hơn nhưng vẫn bảo đảm yêu cầu cải cách hành chính, phục vụ Nhân dân, đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại.
2. Người điều khiển phương tiện tham gia giao thông
Gồm 08 điều, từ Điều 50 đến Điều 57 với các nội dung cơ bản như: Điều kiện của người điều khiển phương tiện tham gia giao thông; giấy phép lái xe; tuổi, sức khỏe của người lái xe; đào tạo lái xe; sát hạch lái xe; cấp, cấp lại, cấp đổi, thu hồi giấy phép lái xe; điểm của giấy phép lái xe.
Điểm mới: trên cơ sở xác định quản lý người lái xe là quản lý hành vi của con người, phù hợp với Công ước Viên năm 1968 về Giao thông đường bộ, các điều ước quốc tế Việt Nam là thành viên, tham khảo có chọn lọc linh nghiệm của nhiều quốc gia tiên tiến trong khu vực và trên thế giới, có thể áp dụng phù hợp với điều kiện Việt Nam.
Chương IV. Tổ chức, chỉ huy, điều khiển giao thông và giải quyết ùn tắc giao thông đường bộ.
Gồm 05 điều, từ Điều 58 đến Điều 62 quy định cụ thể các nội dung trong tổ chức giao thông; giải quyết những vấn đề bất cập về tổ chức giao thông; chỉ huy, điều khiển giao thông; về nguyên tắc và các biện pháp phân luồng giao thông, nguyên tắc giải quyết ùn tắc giao thông, biện pháp giải quyết ùn tắc giao thông trong các trường hợp cụ thể.
Đây là các nội dung mới so với Luật giao thông đường bộ năm 2008 để lực lượng chức năng có cơ sở pháp lý rõ ràng, đầy đủ khi tổ chức thực hiện.
Chương V. Giải quyết tai nạn giao thông đường bộ
Gồm 07 chương, từ Điều 63 đến Điều 69 quy định cụ thể về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân tại hiện trường nơi xảy ra vụ tai nạn giao thông; trách nhiệm của cơ quan Y tế, trách nhiệm của cơ quan Công an, Quân đội, trách nhiệm của cơ quan bảo trì, khai thức đường bộ, đơn vị kiểm định, trách nhiệm của cơ quan Bảo hiểm, Ủy ban nhân dân các cấp trong giải quyết tai nạn giao thông.
Đây là những nội dung mới so với Luật Giao thông đường bộ năm 2008 để bảo đảm việc giải quyết tai nạn giao thông được kịp thời, khách quan, chính xác, đúng pháp luật; có sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan, tổ chức; khắc phục kịp thời hậu quả các vụ tai nạn giao thông; bảo đảm quyền lợi và nghĩa vụ của các bên có liên quan trong vụ tai nạn giao thông.
Chương VI. Thực thi pháp luật trong phát hiện, xử lý vi phạm và trách nhiệm pháp lý.
Gồm 03 điều, từ Điều 70 đến Điều 72 quy định về tuần tra, kiểm soát, phòng ngừa, xử lý vi phạm về trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đấu tranh chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác trên tuyến giao thông đường bộ; kiểm soát thông qua các phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ; tiếp nhận thông tin, hình ảnh phản ánh vi phạm trật tự, an toàn giao thông do tổ chức, cá nhân cung cấp; tiếp nhận kết quả thu được từ các phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ do tổ chức được giao quản lý, khai thác, bảo trì kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ cung cấp; giám sát việc thực thi pháp luật.
Chương VII. Quản lý nhà nước về trật tự, an toàn giao thông đường bộ
Gồm 10 điều, từ Điều 73 đến Điều 82 quy định nội dung quản lý nhà nước về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ; quy định về phân công trách nhiệm quản lý nhà nước của các bộ, ngành, địa phương theo đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng bộ, ngành, địa phương một cách rõ ràng, rành mạch, đúng quy định của pháp luật về tổ chức bộ máy.
Điểm mới: Quy định về trung tâm chỉ huy điều khiển, giám sát giao thông và cơ sở dữ liệu trong công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, theo đó trung tâm chỉ huy điều khiển, giám sát giao thông có chức năng giám sát, chỉ huy điều khiển giao thông và xử lý vi phạm giao thông; kết nối và xử lý dữ liệu camera từ các cơ quan, tổ chức khác để phục vụ công tác bảo đảm an toàn giao thông gắn với bảo đảm an ninh, trật tự. Cơ sở dữ liệu dùng chung trong công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ phục vụ công tác quản lý nhà nước về trật tự, an toàn giao thông đường bộ, công tác bảo đảm an ninh, trật tự và các công tác quản lý nhà nước có liên quan.
Chương VIII. Điều khoản thi hành
Gồm 02 điều, Điều 83 và Điều 84 quy định hiệu lực thi hành và điều khoản chuyển tiếp đối với các loại Giấy phép lái xe theo quy định mới.
Điểm mới: Giấy phép lái xe hàng B1, B2, C, D, E, FB2, FC, FD, FE được cấp theo Luật Giao thông đường bộ 2008 có giá trị tương đương với Giấy phép lái xe các hạng B, C, D1, D, BE, CE, D1E, DE theo quy định của Luật này.
Việc xây dựng Luật Bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ với sự điều chỉnh các nội dung về bảo đảm trật tự, an toàn cho người, phương tiện tham gia giao thông, tách bạch với hoạt động đầu tư, xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng giao thông và quản lý vận tải đường bộ là xu hướng xây dựng pháp luật hiện đại. Trong đó điểm mới nổi bật là: Luật hóa đầy đủ và có hệ thống các quy định về trật tự an toàn giao thông; ưu tiên ứng dụng khoa học, kỹ thuật công nghệ hiện đại trong giám sát, chỉ huy, điều hành giao thông, kiểm soát, phát hiện, xử lý vi phạm; xác định rõ cơ quan chủ trì, chịu trách nhiệm chính và cơ quan có trách nhiệm phối hợp để bảo đảm hiệu quả, tránh chồng chéo hoặc bỏ sót các nhiệm vụ quản lý.